
Đêm hoa đăng trên Sông Hương tiêu đề dải ngân hà đốt, những món thuyền rực rỡ như cung điện nhỏ vang vọng nhạc cung đình, mũi lên một thế giới cổ tích phổi linh. Huế hôm nay như người đưa ra ngược dòng thời gian, sống lại không khí trầm mặc, cổ kính mà kỳ diệu của cố đô xưa.
Đặt chân đến Huế, ta như lạc vào những cung điện, thành quách phủ nhung phong, những khu nhà vườn mơ mộng bên dòng Hương Giang, hay các làng nghề truyền thống danh tiếng. Ẩm thực Huế mang tinh tế, từ món ăn dân dã dã ngoại như cơm hến, bánh bèo đến cao lương mỹ vị trong cung đình. Tất cả đều là gói trong tiếng nhac nhạc cung đình hay câu hò lô nhì cánh vẳng.
Thiên nhiên ban tặng cho Huế vẻ đẹp hài hòa, từ dòng Hương thơ mộng, biển Thuận An, Lăng Cô với cát trắng nước trong, đến núi Bạch Mã mây bạch quanh năm. Huế, vùng đất cổ, từng là món quà của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân, mang trong mình vẻ đẹp hòa hòa giữa văn hóa và thiên nhiên.
Các nhà vườn như An Hiên, Kim Long, Nguyệt Biều... là điểm dừng chân lý tưởng, vừa là nghệ thuật kiến trúc, vừa là không gian thư giãn yên bình. Những chợ quê bên cầu gạch Thanh Toàn lại đưa ta trở về ký ức dân gian với trò chơi bài chòi, câu hòm đối đáp, hay phiên những nông cụ xưa đậm chất làng quê Việt.
Làng nghề Huế lưu giữ tinh hoa qua bao thế hệ, từ gỗ chạm khắc, đúc đồng, đến nón lá, tranh dân gian. Đặc biệt, văn hóa ẩm thực nơi đây là nghệ thuật, mỗi món ăn là một bức tranh màu sắc hài hòa, là sự hòa quyện tuyệt vời giữa hương vị và cảm xúc.
Nhã nhạc cung đình và ca Huế là linh hồn của đất cố đô, từ giai điệu Bắc trang trọng, rung chuyển đến giai điệu Nam buồn man tim. Những lần nghe ca Huế trên thuyền Sông Hương giữa ánh trăng mờ ảo, ta như thấy mình đang sống trong một bức tranh cổ xưa, để rồi mãi mãi vấn vương giai điệu Nam Ai, Nam Bình...
Huế, không chỉ là một vùng đất mà là một ký ức, một hoài niệm yên tĩnh khơi dậy tình yêu và ngưỡng mộ trong lòng mỗi người.
.jpg)
Huế, vùng đất lịch sử giàu bản sắc văn hóa, không chỉ nổi tiếng với quần thể di tích Cố đô mà còn là nơi gắn bó với thời thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã sống ở đây trong hai giai đoạn: từ 1895 đến 1901 (5-11 tuổi) và từ 1906 đến 1909 (16-19 tuổi).
Ngôi nhà nơi gia đình Nguyễn Sinh Cung (tên tuổi nhỏ của Bác Hồ) tồn tại từ năm 1895 đến 1901 nằm trên đường Mai Thúc Loan. Đây là nơi ông Nguyễn Sinh Sắc học tập tại Quốc Tử Giám, bà Hoàng Thị Loan vải nuôi con, và Nguyễn Sinh Cung lớn lên trong bối cảnh kinh kỳ đầy biến động.
Từ 1898 đến 1900, gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến làng Dương Nỗ, nơi ông Nguyễn Sinh Sắc dạy học. Nguyễn Sinh Cung sống, học tập và tiếp xúc với đời sống dân dân, từ đó hun đúc tinh thần yêu nước.
Năm 1908-1909, Nguyễn Tất Thành học tại Trường Quốc học Huế. Tại đây, Người tham gia phong trào đấu tranh chống thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế, đánh dấu sự chuyển biến từ ý thức yêu nước sang hành động yêu nước.
Hiện nay, Thừa Thiên Huế có khoảng 20 di tích và địa điểm liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, nơi an táng bà Hoàng Thị Loan, và biểu tượng phong đấu tranh chống thuế . Những di tích và di sản vật thể liên hệ với Bác là niềm tự hào, góp phần làm giàu để tăng thêm giá trị văn hóa của vùng đất cố đô. Di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình Người để lại ở Thừa Thiên Huế là niềm tự hào và là tài sản vô giá cho người xứ Huế.
(1).jpg)
Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long đặt ra những quy định chặt chẽ về công việc thiết triều, quy định cả thời gian hỗn trang phục. Vào Đại triều (ngày mồng 1 và rằm hàng tháng), các quan từ lục phẩm trở lên mặc áo đại triều để lạy chầu ở điện Thái Hòa. Trong khi đó, Thường triều (ngày 5, 10, 20, 25 hàng tháng) diễn ra tại điện Cần Chánh, với sự tham gia của các quan từ tứ sản trở lên, mặc áo thường triều. Những quy định này không thể chỉ thực hiện uy nghi của hoàng cung mà còn đưa ra lời khuyên về phần hình thành và duy trì nghi thức cung đình chuẩn mực trong triều Nguyễn.
Trang phục cung đình triều Nguyễn, bao gồm long bào, hoàng bào, long cổn, được thiết kế với những quy định dinh dưỡng chất liệu, màu sắc và họa tiết. Trong đó, long bào là trang phục vua mặc trong các dịp Đại triều và Lễ Tết. Một mảnh long bào tiêu biểu còn lưu giữ là vật mang số hiệu BTLS.4381, thuộc tập hợp Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Dựa trên sơ đồ hoa văn và hương vải, chiếc áo này được xác định là có niên đại vào nửa sau thế kỷ 19.
Chiếc áo long bào này mang màu vàng chính sắc, biểu tượng cho uy quyền và vị trí trung tâm của nhà vua theo học thuyết ngũ hành. Màu vàng thuộc địa Thổ, đại diện cho trung quốc, có thể hiện rõ vị trí độc tôn của vua – người đứng đầu quốc gia. Trên thân áo, hai chữ “Vạn Thọ” được thêu nổi ở phía trước và sau áo, theo đường chữ triện. Hai chữ này xuất hiện từ thời vua Minh Mạng, mang ý nghĩa chúc phúc thiên tử “vạn thọ vô cương”. Đây cũng là sáng tạo riêng biệt của triều Nguyễn, phản ánh ánh sáng văn hóa đặc sắc và sự quan trọng đối với vương quyền.
Hình tượng rồng là điểm nhấn quan trọng trên long bào, với 9 con rồng được thêu xen kẽ cùng những vầng mây, tạo nên bố cục “long vân đại hội”. Trong đó, 2 phi long ở thân trước và sau là rồng chính diện, bị chọc tức chỉ bóng và kim tuyến, có thể hiện ra uy nghi. Hình ảnh 9 con rồng, Tất cả đều là rồng 5 móng, là biểu tượng tuyệt đối cho quyền lực của thiên tử – “cửu ngũ chí tôn”.
Phần áo cà vạt và áo tay được trang trí bằng hình ảnh thủy ba (sóng nước), kết hợp với rồng bay lên từ biển, mang ý nghĩa sâu sắc về “sơn hà thống nhất” và khẳng định non sông gấm vải này ở dưới sự quản lý của nhà vua.
Chế tác long bào đòi hỏi kỹ thuật thủ công tinh tinh, từng mũi tiêm phải đều nhau, chỉn chu, và phối hợp nhịp nhàng với chỉ kim tuyến. Mỗi chi tiết không chỉ mang tính mỹ thuật mà còn chứa giá trị biểu tượng cao cả. Những mảnh long bào của vương triều Nguyễn không chỉ là trang phục mà còn là tác phẩm nghệ thuật độc cường, phản ánh ánh tinh hoa văn hóa cung đình và quyền lực tuyệt đối của vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Đêm hoa đăng trên Sông Hương tiêu đề dải ngân hà đốt, những món thuyền rực rỡ như cung điện nhỏ vang vọng nhạc cung đình, mũi lên một thế giới cổ tích phổi linh. Huế hôm nay như người đưa ra ngược dòng thời gian, sống lại không khí trầm mặc, cổ kính mà kỳ diệu của cố đô xưa.
Đặt chân đến Huế, ta như lạc vào những cung điện, thành quách phủ nhung phong, những khu nhà vườn mơ mộng bên dòng Hương Giang, hay các làng nghề truyền thống danh tiếng. Ẩm thực Huế mang tinh tế, từ món ăn dân dã dã ngoại như cơm hến, bánh bèo đến cao lương mỹ vị trong cung đình. Tất cả đều là gói trong tiếng nhac nhạc cung đình hay câu hò lô nhì cánh vẳng.
Thiên nhiên ban tặng cho Huế vẻ đẹp hài hòa, từ dòng Hương thơ mộng, biển Thuận An, Lăng Cô với cát trắng nước trong, đến núi Bạch Mã mây bạch quanh năm. Huế, vùng đất cổ, từng là món quà của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân, mang trong mình vẻ đẹp hòa hòa giữa văn hóa và thiên nhiên.
Các nhà vườn như An Hiên, Kim Long, Nguyệt Biều... là điểm dừng chân lý tưởng, vừa là nghệ thuật kiến trúc, vừa là không gian thư giãn yên bình. Những chợ quê bên cầu gạch Thanh Toàn lại đưa ta trở về ký ức dân gian với trò chơi bài chòi, câu hòm đối đáp, hay phiên những nông cụ xưa đậm chất làng quê Việt.
Làng nghề Huế lưu giữ tinh hoa qua bao thế hệ, từ gỗ chạm khắc, đúc đồng, đến nón lá, tranh dân gian. Đặc biệt, văn hóa ẩm thực nơi đây là nghệ thuật, mỗi món ăn là một bức tranh màu sắc hài hòa, là sự hòa quyện tuyệt vời giữa hương vị và cảm xúc.
Nhã nhạc cung đình và ca Huế là linh hồn của đất cố đô, từ giai điệu Bắc trang trọng, rung chuyển đến giai điệu Nam buồn man tim. Những lần nghe ca Huế trên thuyền Sông Hương giữa ánh trăng mờ ảo, ta như thấy mình đang sống trong một bức tranh cổ xưa, để rồi mãi mãi vấn vương giai điệu Nam Ai, Nam Bình...
Huế, không chỉ là một vùng đất mà là một ký ức, một hoài niệm yên tĩnh khơi dậy tình yêu và ngưỡng mộ trong lòng mỗi người.

Dòng song Hương, biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, hiện lên qua bảo trang văn, thơ, và nhạc họa như một thực thể sống động và bí mật. Bùi Giáng, với hai câu thơ giản dị nhưng sâu sắc, đã khơi dậy trong lòng người yêu Huế những cảm xúc vừa du lịch vừa ngày dứt:
Dạ thưa xứ Huế bây giờ
vẫn còn núi Ngự, bên bờ sông Hương.
Phải chăng qua hai câu ấy, ông muốn tôn vinh hai biểu tượng bất biến của Huế, hay đơn giản là cách ông trầm mặc nhìn nhận sự đơn giản và trường tồn tại của vùng đất này? Dẫu sao, sông Hương và núi Ngự đã là “thành tố cơ bản” làm nên cái linh hồn kỳ kỳ của cố đô.
Sông Hương – con sông như không trăng, chỉ lững lờ trôi, ôm ấp vẻ đẹp trầm mặc của thành quách và hồn người Huế. Từ dòng nước trong vắt đến dòng cú thất thường làm cư dân, sông Hương vừa dịu dàng vừa dữ dội. Nó mang trong mình sức mạnh của thiên nhiên, đôi khi còn sơ thức con người, nhưng lại khiến người ta đắm say bởi nét thơ mộng kỳ lạ. Dòng sông đã đi vào thi ca, nhạc họa không chỉ như một địa danh mà còn là nguồn cảm hứng bất tận.
Tên gọi sông Hương, như chính dòng nước, cũng được bao phủ bởi lớp huyền thoại. Từ loài cỏ thơm thạch xương bồ ở thượng nguồn, đến truyền thuyết về mộng mơ hương tìm đất của hoàng Nguyễn, hay sự lý giải của các sử gia về tên huyện Hương Trà – mỗi câu chuyện đều góp phần tạo nên quyến rũ quyến rũ của dòng sông. Yên chí, cái tên ấy còn gắn liền với một thành phố cổ của người Chăm, đã tìm thấy giao thoa văn hóa đặc sắc mà dòng sông đã chứng kiến.
Đọc hành trình của mình, sông Hương Giảm qua những địa danh lịch sử và văn hóa, từ điện Hòn Chén bí mật với những nghi lễ lên đồng, đến chùa Thiên Mụ linh thiêng, hay những công trình cung đình nguy nga triều triều Nguyễn. Mỗi khúc quanh, mỗi bến nước đều chứa những câu chuyện, truyền thuyết, và dấu ấn thời gian.
Với những nét đẹp độc nhất, sông Hương không chỉ là “minh đường” cho Kinh thành Huế mà còn là chứng nhân lịch sử, linh hồn của xứ Huế. Sự tồn tại của dòng sông, dù nhỏ bé so với các dòng sông lớn khác, vẫn vững vàng trong tâm thức người Việt. Chính điều đó tạo người ta không ngừng tự hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – một câu hỏi mà có thể chỉ chính dòng sông mới trả lời.

Áo dài không phải là trang phục riêng của người Huế. Thế nhưng không hiểu sao, cứ qua tay người con gái cố đô, tất cả lại trở nên thật hoàn hảo, thơ mộng. Phải chăng ở xứ Huế, áo dài không còn là loại trang phục truyền thống chỉ xuất hiện trong lễ hội, cung đình, mà hơn hết, đã đi vào đời sống thường ngày như một món ăn tinh thần không thiếu được.
Đi chùa, người ta mặc áo dài để thể hiện sự tôn nghiêm, quý kính. Đến trường, các em nữ sinh tự tin trong tà dài trắng như một quy định bắt buột của nhà trường. Lễ nhà thờ - một tôn giáo vốn xuất phát từ phương Tây, người ta vẫn tự tin mặc áo dài để hành lễ. Bất cứ nơi đâu ở Huế, trang phục này cũng xuất hiện như một đặc trưng đã làm nên thương hiệu: áo dài Huế.
Sau cuộc cải cách của họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường, nét đẹp của người phụ nữ Việt càng được tôn vinh hơn qua những đường cong mà chỉ áo dài mới có thể lột tả hết được. Nếu muốn chọn may áo dài đẹp, có lẽ không có loại nào sáng được như lụa. Chất vải mềm, mát, lại được diện bởi người con gái xuân thì thì không bút tích nào có thể lột tả hết được.
“O dễ thương với nụ cười Gia Hội
Tóc Trường Tiền làm trai Huế ngẩn ngơ
Chiếc áo dài cùng với nón bài thơ
Để xao xuyến hồn sông Hương núi Ngự”
Cái hay của áo dài Huế còn nằm ở nét duy ngầm của người con gái xứ kinh kì. Bao độ đổi thay, phụ nữ Huế vẫn giữ nguyên nét đằm thắm, mặn mà rất riêng. Có dịp đi ngang xứ Huế, nghe cái giọng nói dịu dàng, dễ thương, có chàng trai nào mà không động lòng?

Chuyện tình của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ và nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là câu chuyện đầy cảm hứng trong văn học sử Việt Nam hiện đại. Cả hai, đều là những cây bút được trao Giải thưởng Nhà nước năm 2007, đã để lại dấu ấn đậm nét qua những tác phẩm lưu tình cảm cảm và tình yêu.
Bắt đầu hẹn hò từ năm 1972, Lâm Thị Mỹ Dạ - kém Hoàng Phủ Ngọc Tường 12 tuổi - đã viết những dòng thơ đầy rung động về mối tình đầu. Đáp lại, tâm hồn của bà tạo nhà văn viết nên những vần thơ xao xuyến. Sau lễ cưới năm 1973, Hoàng Phủ Ngọc Tường tặng vợ bài thơ “Một thân cây, một bảo tàng lá, một bông hoa”, như lời hứa hẹn về một tình yêu bền vững.
Cuộc sống gia đình thêm trống trải khi con gái đầu lòng Hoàng Dạ Thư ra đời. Niềm vui hạnh phúc hòa hòa những nỗi buồn phiền, trăn trở về trong thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ: bà vừa say đắm, vừa đòi hỏi sự chia chia và đồng hành từ chồng.
Sau ngày đất nước thống nhất, họ trở về Huế, vun đắp tổ ấm nhỏ bên dòng Hương Giang thơ mộng. Những thử thách của cuộc sống bộ bề không làm phai nhạt tình yêu, mà ngược lại, còn khắc sâu thêm sự đồng cảm trong từng bài thơ, từng câu chữ họ viết tặng nhau.
Năm 1976, sự chào đời của con gái thứ hai Hoàng Dạ Thi làm tổ ấm nhỏ thêm phần ấm áp, dù cuộc sống với đồng lương bao cấp tạo họ nhiều phen khó khăn. Nhưng chính tình yêu và sự kiện quan giúp đỡ họ vượt qua mọi thử thách. Lâm Thị Mỹ Dạ từng an nén chồng:
"Nếu anh sống vô tư cao cả
Và vui tươi Cuồng cảm cần với
Sự già nua sẽ đến cùng ta
tâm hồn em mãi đẹp như buổi sớm."
Chuyện tình nửa thế kỷ của họ là minh chứng cho sự gắn bó, yêu thương và sức mạnh của tình yêu.
.jpg.webp)
Trong những trang sử vàng son của đất nước, câu chuyện tình yêu giữa vua Duy Tân và Mai Thị Vàng luôn tỏa sáng như một viên ngọc quý. Vị vua trẻ, với tâm hồn nhiệt huyết và khát khao đổi mới, đã tìm thấy tình yêu đích thực bên cạnh người con gái tài sắc vẹn toàn.
Những buổi học kinh sử cùng ông thầy Mai Khắc Đôn đã mở ra cho vua Duy Tân một chân trời mới. Không chỉ là thầy trò, mối quan hệ của họ còn trở nên thân thiết hơn khi vị vua trẻ dần dành tình cảm cho người con gái xinh đẹp của thầy. Mai Thị Vàng, với vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ hơn người, cũng đã rung động trước tấm chân tình của vị vua trẻ.
Tình yêu của họ đơm hoa kết trái giữa những bức tường cung đình cổ kính. Dù phải đối mặt với những lễ nghi khắt khe và những áp lực từ triều đình, tình cảm của họ vẫn luôn mãnh liệt. Ngày cưới, vua Duy Tân đã dành cho Mai Thị Vàng những lời thề nguyện ngọt ngào, hứa sẽ cùng nhau xây dựng một cuộc sống hạnh phúc.
Tuy nhiên, số phận trớ trêu đã chia cắt đôi lứa. Biến cố lịch sử đã đưa vua Duy Tân vào cảnh lưu đày. Dù xa cách, tình yêu của họ vẫn luôn cháy bỏng. Những lá thư trao gửi, những lời tâm sự thổn thức đã trở thành sợi dây liên kết giữa hai trái tim.
Mai Thị Vàng, dù đau khổ tột cùng, vẫn luôn một lòng một dạ chờ đợi chồng. Bà từ chối mọi lời cầu hôn, quyết tâm giữ gìn tấm lòng son sắt. Cuộc sống của bà trở nên đơn điệu và cô đơn, nhưng trong trái tim bà, hình ảnh của vua Duy Tân vẫn luôn sống động.
Câu chuyện tình yêu của vua Duy Tân và Mai Thị Vàng không chỉ là một câu chuyện tình yêu đẹp mà còn là biểu tượng cho lòng chung thủy, sự hy sinh và tình yêu bất diệt. Họ đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giữ gìn tình yêu của mình.